Vô học và niết bàn

vô học là gì
vô học là gì

Học giả An Chi: Từ Hải giảng hai tiếng vô học 無學 như sau:

“佛教語, 謂小乘四果之最後一果, 即阿羅漢果也” (Phật giáo ngữ, vị tiểu thừa tứ quả chi tối hậu nhất quả, tức A La Hán quả dã), nghĩa là “tiếng nhà Phật, chỉ quả cuối cùng trong bốn quả của phái Tiểu Thừa, tức quả A La Hán vậy”.

Từ điển Phật học Hán Việt của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Kim Cương Tử chủ biên (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998) đã giảng khái niệm vô học của Phật giáo như sau :

“Trong bốn quả của Thanh Văn thừa (mà có sách cho rằng cũng gọi là Tiểu Thừa – AC), ba quả trước là Hữu học. Quả A La Hán thứ tư là Vô học. Đạo học viên mãn, không phải tu học nữa. Pháp hoa huyền tán, quyển 1: Giới định tuệ chính là học thể. Tiến tới tu tập, gọi là hữu học; tới chỗ viên mãn, thôi hẳn tu tập, gọi là vô học”.

Cứ theo hai lời giảng trên đây, thì vì vô học là quả cuối cùng trong bốn quả của Thanh Văn thừa (Tiểu Thừa), tức A La Hán quả, nên A La Hán quả cũng gọi là Vô học quả.

Vô học, dịch từ tiếng Sanskrit là aśaikṣa, gồm có a- (vô, phi) và śaikṣa (người tu tập). Vậy, cứ theo cấu tạo và xét theo ngôn ngữ đời thường thì aśaikṣa là kẻ không có học (về văn hóa và/hoặc lễ giáo) nhưng theo nghĩa Phật học thì vô học mới là bậc hữu học thượng thặng.

Xuất xứ của hai tiếng Niết bàn

Bạn đọc: Xin ông vui lòng cho biết xuất xứ của hai tiếng niết bàn. (Hải Vân).

Học giả An Chi: Niết bàn là dạng tắt của niết bàn na 涅槃那. Đây là ba tiếng đọc theo âm Hán Việt của ba chữ Hán mà người Trung Hoa đã dùng để phiên âm danh từ hữu quan bằng tiếng Sanskrit. Đoàn Trung Còn đã cho xuất xứ của danh từ niết bàn như sau:

“(Do tiếng Sanskrit) Nirvâna. Viết trọn: Niết-bàn-na (…) Niết (nir): Ra khỏi. Bàn hay Bàn-na (Vâna): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não” (Phật-học từ-điển, q.II, tr.335).

Dấu mũ (۸) trong chữ nirvâna của Đoàn Trung Còn là một ký hiệu thay thế cho dấu gạch ngang ngắn (-) bên trên chữ cái ghi nguyên âm để thông báo rằng đây là một nguyên âm dài. Vậy từ đây xin đổi nirvâna thành nirvâna. Nhưng nirvâna cũng không phải là xuất xứ của niết bàn vì xuất xứ đích thực của danh từ này trong tiếng Sanskrit lại là nir-vāṇa. Âm đầu của âm tiết thứ ba là phụ âm óc (cerebral consonant) ṇ chứ không phải là n. Nir-vāṇa là một danh từ phái sinh từ động từ nir-VĀ. (Theo truyền thống Phạn ngữ học của phương Tây, người ta in căn tố động từ bằng chữ in hoa). VĀ là căn tố động từ có nghĩa là thổi, là nổi gió, là tỏa hơi ra, là xông mùi. Còn nir là biến thể hình thái học của tiền động từ (preverb) niḥ chỉ ý biến mất, không còn, v.v..

Vậy nir-VĀ là ngừng thổi, ngưng gió, là tắt, kể cả tắt tự nhiên lẫn bị thổi tắt. Và nir-vāṇa là trạng thái ngừng thổi, trạng thái tắt ngấm, do đó còn có nghĩa phái sinh là sự tiêu tan, sự tịch diệt, là cái chết, là sự thoát khỏi kiếp trầm luân để vãng sanh cực lạc, v.v.. Dictionnaire sanskrit-français của N.Stchoupak, L.Nitti và L.Renou (Paris, 1932) đã giảng nir-vāṇa là: “ extinction (sự tắt ngấm), mort (sự chết), néant absolu (hư vô tuyệt đối), béatitude (cực lạc), […]”. Vậy niết bàn không có liên quan gì đến “rừng” mà liên quan đến sự tắt ngấm, sự ngừng thổi, hiểu rộng ra là sự tắt thở và cái chết. Có thể so sánh cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ nir-vāṇa trong tiếng Sanskrit với cấu trúc ngữ nghĩa của danh từ anima trong tiếng Latinh để làm cho vấn đề sáng tỏ hơn.

Danh từ Latinh này có các nghĩa sau đây: 1. không khí; 2. luồng hơi, gió; 3. hơi thở; 4. linh hồn; 5. sinh vật, con người; 6. tâm hồn, tấm lòng. Vật có hơi thở, nghĩa là động vật, kể cả con người, thì được gọi là animal (cũng cho ra tiếng Pháp animal = động vật), phái sinh từ anima. Vậy sự sống và cái chết đều có liên quan đến luồng hơi, đến hơi thở. Tắt hơi, tiếng Sanskrit là nir-VĀ, tức là chết. Tóm lại, xét theo nguồn gốc thì khái niệm niết bàn chỉ liên quan đến hơi thở chứ chẳng có liên quan gì đến cảnh rừng cả.

Sở dĩ Đoàn Trung Còn liên hệ niết bàn với rừng là do đã nhầm vāna (= rừng) với vāṇa trong nirvāṇa. Thực ra, trong tiếng Sanskrit thì ṇ và n là hai phụ âm khác nhau cho nên nếu không phân biệt chúng với nhau thì sẽ dễ dàng đi đến nhầm lẫn về mặt ngữ nghĩa. Thí dụ: aṇu là mịn, nhuyễn, mỏng, yếu v.v. nhưng anu thì lại có nghĩa là về sau, đằng sau, v.v.; caṇa là đậu mỏ (pois chiche) còn cana thì lại là một tiểu tố có tác dụng phiếm chỉ hóa một số đại từ; pāṇa là món tiền đặt trong canh bạc nhưng pāna thì lại là nước giải khát, v.v..

Tương ứng với tiếng Sanskrit nirvāṇa là tiếng Pāli nibbāna mà Concise Pāli-English Dictionary của A.P. Buddhadatta Mahthera (Colombo, 1957) dịch là “extinction (of a fire); emancipation; the final bliss”. Nghĩa đã cho bằng tiếng Anh trong Concise Pāli-English Dictionary cũng trùng với nghĩa đã cho bằng tiếng Pháp trong Dictionnaire sanskrit-français. Căn tố động từ trong cả nirvāṇa lẫn nibbāna đều là VĀ (v trở thành b trong nibbāna là do biến thể saṃdhi) với nghĩa đã nói ở trên. Vậy niết bàn (nirvāṇa, nibbāna) chẳng có liên quan gì đến “rừng” cả.

A.C

Rate this post