Chiêm tinh học và bản đồ sao là gì?

chiem-tinh-hoc-3.jpg
Chiêm tinh học dự đoán được tính cách con người.

Chiêm tinh học là gì?

Chiêm tinh học, trong Tiếng Anh là Astrology, là hệ thống dự đoán tính cách con người dựa trên sự vận hành của vũ trụ cũng như các hành tinh xung quanh Trái đất.

Áp dụng sự vận hành này, người cổ đại đã phát minh ra “bản đồ sao”. Đây là hệ thống tương tự như “lá số tử vi” của phương Đông.

Chiêm tinh học có khả năng đoán được vận mệnh của cá nhân, dân tộc hay quốc gia. Thậm chí, dựa vào nguyên lý vận hành và biến đổi của các chòm sao, có thể đoán được các hiện tượng, sự kiện chủ quan như dịch bệnh, thiên tai, thời tiết. Do đó, Chiêm tinh học còn được gọi là Thuật Chiêm tinh.

Thuật chiêm tinh bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “horoscopos” có nghĩa là “xem giờ”.

Ban đầu, các nhà chiêm tinh học cổ đại dựa trên sự chuyển động của 5 hành tinh là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ – đại diện cho 5 vị thần – để đưa ra dự đoán, kết hợp cùng với Mặt trăng và Mặt trời để lập nên một biểu đồ các hành tinh.

Dựa vào biểu đồ đó, có thể phán đoán được vận mệnh, thời tiết và những điều bí ẩn trong cuộc sống.

Bản đồ sao – Chiêm tinh học.

Bản đồ sao và hiệu ứng Thiên đường

Bản đồ sao là một biểu đồ hình tròn thể hiện sự tương quan vệ vị trí của Mặt trời, Mặt trăng và các hành tinh khác tại thời điểm khi một người được sinh ra.

Trong bản đồ sao sẽ có những khu vực sao chính gồm Tam viên, Nhị thập bát tú, Ngũ tinh – Ngũ vĩ, Thất chính tứ dư – Thất diệu, Thiên tàn cửu tinh, Sao Thiên cẩu, Sao Thiên lang, Bột tinh – Sao chổi.

Tam viên là ba khu vực sao gồm Tử vi, Thái vi, Thiên thị. Thái vi chính là thượng viên gồm 10 ngôi sao. Tử vi chính là trung viên gồm 15 ngôi sao. Thiên thị chính là hạ viên gồm 25 ngôi sao.

Tam viên được đối ứng với người đời và quy định về nội dung nhân sự đối ứng với Tam viên, Tử vi viên được đối ứng với đế vương ở dương gian là đế tinh ở chỗ đó.

Nhị thập bát tú là 28 khu sao được chọn để so sánh sự chuyển động của Mặt trời, Mặt trăng và Ngũ tinh làm tiêu chí để quan sát. “Tú” hoặc “xá” đều mang nghĩa là dừng lại.

Gọi là Nhị thập bát tú là dựa theo hướng chuyển động khi nhìn thấy Mặt trời và Mặt trăng, gồm:

Chòm sao ở phương Đông là sao Cang, sao Đê, sao Phòng, sao Tâm, sao Vĩ, sao Giác, sao Cơ.

Chòm sao ở phương Bắc là sao Nữ, sao Hư, sao Ngưu, sao Đấu, sao Nguy, sao Thất, sao Bích.

Chòm sao ở phương Tây là sao Lâu, sao Vị, sao Mão, sao Khuê, sao Tất, sao Sấm, sao Chuỷ.

Chòm sao ở phương Nam là sao Quỷ, sao Liêu, sao Tỉnh, sao Tinh, sao Dực, sao Trương, sao Chấn.

Ngũ Tinh – Ngũ Vĩ tức là 5 sao gồm Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ lần lượt nằm ở 5 phương vị Đông, Tây, Nam, Bắc và Trung ương.

Sao Mộc hay phương Đông Mộc tinh gọi là Tuế tinh.

Sao Kim hay phương Tây Kim tinh gọi là Thái bạch.

Sao Hoả hay phương Nam Hoả tinh gọi là Huỳnh hoặc.

Sao Thuỷ hay phương Bắc Thuỷ tinh gọi là Thần tinh.

Sao Thổ hay trung ương Thổ tinh gọi là Trấn tinh.

Các hành tinh trong Ngũ tinh đều quay từ phải sang trái nên gọi là Ngũ Vĩ.

Thất Chính tứ dư – Thất Diệu là tổng hợp của Mặt Trời, Mặt Trăng và ngũ tinh gồm Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ.

Thiên Tàn cửu tinh là chính sao bến trời vắt ngang qua Ngân hà, hình dáng tựa chiếc cầu nên được gọi là cầu trời (Thiên Kiểu). Nó nằm giữa sao Đẩu và sao Cơ, phương vị của nó sẽ thay đổi dựa trên sự thay đổi của bốn mùa.

Sao Thiên cẩu có hình dáng như sao bay lớn, có âm thanh, khi rơi xuống đến đất sẽ có hình dáng giống như con chó nên gọi là sao Thiên cẩu (chó trời).

Sao Thiên lang có vị trí nằm ở phía Đông của sao Tỉnh và phía Nam của sao Tú, các Tinh sĩ xưa cho rằng sao này ám chỉ sự tàn nhẫn, tham lam nên phần nhiều đều xem bọn xâm lược là “Thiên lang”.

Bột tinh – Sao chổi – Tuệ tinh xoay quanh Mặt trời. Theo quan niệm, sự xuất hiện của sao chổi với cái đuôi dạng cái chổi dài lê thê là mang đến điềm chẳng lành.

Hiệu ứng Thiên đường nghĩa là sự phân dã của Nhị thập bát tú.

Nhị thập bát tú được phân thành bốn vùng sao là Đông Tây Nam Bắc, mỗi phương đều có 7 tinh tú tạo nên hình dáng khác nhau. Người xưa đã tưởng tượng thành những động vật tốt lành:

Phương Đông chính là Thanh Long (Rồng xanh) gồm có Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ.

Phương Tây chính là Bạch Hổ (Hổ trắng) gồm có Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sấm.

Phương Bắc chính là Huyền vũ (Rùa và rắn) gồm có Đấu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích.

Phương Nam chính là Chu tước (Chim sẻ) gồm có Tĩnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Do nhu cầu của chiêm tinh học, khi Nhị thập bát tú đóng, Nhị thập bát tú đối ứng lại với các châu quốc nằm trên mặt đất, đó được gọi là phân dã của tinh tú.

(Thông tin trong bài chỉ mang tính chất tham khảo).

Rate this post