“Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” – chân lý của thời đại | Tư liệu – Văn kiện

GS, TS. Nguyễn Thị Doan

Phó Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Theo Từ điển tiếng Việt, ”dốt: 1. là kém về trí lực, chậm hiểu, chậm tiếp thu, trái với thông minh; 2. là không hiểu biết gì hoặc hiểu biết rất ít” còn ”dốt đặc là dốt hoàn toàn, không biết tí gì”1.

Lịch sử phát triển xã hội loài người đã chứng minh nếu một dân tộc dốt thì dân tộc đó hay đất nước đó không thể phát triển nhanh và bền vững. Ngay từ chế độ nô lệ và cổ đại Trung Hoa, nhiều bậc hiền triết đã đề cao vai trò của tri thức và người trí thức đối với việc phát triển kinh tế – xã hội và lịch sử. Vì năm 1442, trên Văn bia ở Quốc Tử Giám – Hà Nội, cha ông ta đã khẳng định: ”Hiền tài là nguyên khí quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu và thấp kém”.

Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, bước vào xây dựng chế độ mới, V.I.Lênin đã chỉ rõ, ”không có tri thức thì không có chủ nghĩa xã hội” và Người đã yêu cầu mọi người phải luôn luôn ”học, học nữa, học mãi”.

Nhận thức được tác hại của dốt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nâng thành quan điểm: dốt cũng là một thứ giặc; thói quen, tập tục lạc hậu cũng là một loại kẻ thù. Hơn 80 năm thực hiện chế độ nửa phong kiến, nửa thuộc địa, thực dân Pháp đã sử dụng chính sách ngu dân để dễ bề cai trị. Khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, ở nước ta trên chín mươi phần trăm dân số mù chữ. Để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong chế độ mới và thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, yêu cầu quan trọng hàng đầu phải nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân. Vì vậy, ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), ngày 3-9-1945 khi đề cập đến những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Chính phủ nhân dân lâm thời Hồ Chí Minh đã đưa ra sáu vần đề, trong đó có: “Nạn dốt – Là một trong những phương pháp độc ác mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta. Hơn chín mươi phần trăm đồng bào chúng ta mù chữ.

Nhưng chỉ cần ba tháng là đủ để học đọc, học viết tiếng nước ta theo vần quốc ngữ. Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy tôi đề nghị mở một chiến dịch để chống nạn mù chữ”2. Nạn dốt đã được Hồ Chí Minh xếp thứ hai, sau nạn đói của năm đó. Trong Thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người đã khẳng định: ”Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”3. Để khuyến khích toàn dân học tập, ngày 4-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục ra lời kêu gọi ”Chống nạn thất học” đã chỉ rõ:

”Quốc dân Việt Nam!

Muốn giữ vững nền độc lập,

Muốn làm cho dân mạnh nước giàu,

Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà, và trước hết phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ…

Những người chưa biết chữ hãy gắng sức mà học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm làng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình.

Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm, đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là một phần tử trong nước, có quyền bầu cử và ứng cử”4.

Những lời kêu gọi trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng dân tộc vĩ đại, danh nhân văn hóa của nhân loại, đặc biệt là câu nói bất hủ ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” đã trở thành chân lý của thời đại. Nó hướng cả dân tộc Việt Nam vươn tới đỉnh cao của văn hóa, văn minh, xứng đáng một nước Việt Nam độc lập xã hội chủ nghĩa.

Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nha Bình dân học vụ nhanh chóng được thành lập với nhiệm vụ tổ chức, đôn đốc phong trào bình dân học vụ làm cho phong trào học tập phát triển khắp nơi, từ thành thị đến nông thôn, từ miền ngược đến miền xuôi. Chỉ trong vòng một năm đã có trên 2,5 triệu người biết chữ. Các hủ tục cũng dần được xóa bỏ. Đời sống văn hóa mới từng bước được xác lập. Đặc biệt đã có một số trí thức người Việt có trình độ uyên thâm từ Pháp trở về nước góp phần quan trọng xây dựng nền móng hệ thống giáo dục phổ thông, chuyên nghiệp, đại học, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước.

Lời kêu gọi ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”5 đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp giáo dục, văn hóa, khoa học kỹ thuật trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, phục vụ quá trình phát triển của đất nước.

Ngay trong thời kỳ trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn xa trông rộng, luôn quan tâm và tạo mọi điều kiện cho phát triển văn hóa, giáo dục, các trường lớp trong nước đã được mở để đào tạo bồi dưỡng cán bộ; mặt khác, nhiều thiếu sinh quân được cử đi học ở Quế Lâm Trung Quốc, nhiều cán bộ khoa học và quân sự được cử đi Liên Xô, Trung Quốc để đào tạo, chuẩn bị lực lượng cán bộ cho giai đoạn cách mạng mới. Tháng 7-1948, trong Báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam đã khẳng định, nền văn hóa mới mà Đảng và nhân dân ta xây dựng là nền văn hóa dân chủ mới Việt Nam ”phải gồm đủ ba tính chất: dân tộc, khoa học, đại chúng”6.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định phải “xúc tiến công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”7. Sau hòa bình, hệ thống giáo dục phổ thông, y tế phát triển mạnh, số học sinh năm 1960 tăng 80 lần so với năm 1957; cơ sở y tế năm 1960 tăng hơn l1 lần năm 1955. Nhiều cán bộ, học sinh được cử đi nghiên cứu, học tập ở nước ngoài để tiếp thu kiến thức mới, hiện đại về phục vụ đất nước. Đời sống văn hóa, trình độ hiểu biết của nhân dân được nâng lên rõ rệt.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960) đến Đại hội lần thứ V của Đảng đã nêu định hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam xã hội chủ nghĩa với hai đặc trưng có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Ngay từ năm 1960, Đảng ta đã xác định để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì cách mạng khoa học kỹ thuật phải là then chốt. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đã đề ra một trong những nhiệm vụ là: nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao năng lực quản lý kinh tế của cán bộ, công nhân và nhân dân lao động, tăng cường đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề; xúc tiến công tác khoa học kỹ thuật, xúc tiến thăm dò tài nguyên thiên nhiên và tiến hành điều tra cơ bản. Chính vì nhận thức rõ vai trò của tri thức và đội ngũ tri thức đối với sự phát triển của đất nước mà lớp lớp cán bộ được đào tạo, trưởng thành và đã có đóng góp mang tính chất quyết định cho sự phát triển của đất nước. Điều đó, khẳng định, Đảng ta đã luôn thấm nhuần và thực hiện lời dạy của Bác ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Bởi vì nếu một dân tộc kém về trí lực, chậm hiểu, chậm tiếp thu thì không thể làm nên những bước nhảy vọt mà sau khi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất: ”Miền Bắc nước ta đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”8. Trong lĩnh vực giáo dục, văn hóa đã đạt được những thành tựu quan trọng, trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cán bộ và nhân dân được nâng lên rõ rệt. Năm 1965, số học sinh phổ thông tăng gấp 3,5 lần, số sinh viên đại học và trung học tăng 25 lần so với năm 1960; hầu hết các xã đều có trường phổ thông cấp I (nay là phổ thông tiểu học), cấp II (nay là phổ thông trung học cơ sở), huyện có trường phổ thông cấp III (nay là phổ thông trung học); có 18 trường đại học với 26.100 sinh viên; đã có 21.332 cán bộ tốt nghiệp đại học và 55.000 cán bộ tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp; 70% số huyện có bệnh viện, 90% số xã đồng bằng và 78% số xã ở miền núi có trạm y tế, số bác sĩ, dược sĩ tăng gấp 5 lần so với năm 1960 (năm 1965 có l.525 bác sĩ và 8.043 y sĩ) đã tạo tiền đề cho những bước phát triển tiếp theo.

Khi đế quốc Mỹ tiến hành leo thang chiến tranh, đánh phá miền Bắc, các trường học phải sơ tán thậm chí học dưới hầm nhưng sự nghiệp giáo dục, văn hóa không bị ngừng trệ mà còn phát triển từ hệ phổ thông đến đại học và trên đại học. Công tác nghiên cứu khoa học, điều tra cơ bản, thăm dò tài nguyên được đẩy mạnh phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế ở miền Bắc, chi viện cho miền Nam nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước.

Năm 1975, đất nước thống nhất, mục tiêu xây dựng đất nước đã chuyển sang giai đoạn mới, đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có trình độ lý luận, chuyên môn cao hơn. Điều đó tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo và văn hóa trong cả nước phát triển. Hệ thống giáo dục, đào tạo đã được thống nhất trong cả nước, vấn đề phổ cập tiểu học đã được đặt ra, trẻ em đến tuổi đều được đi học. Hệ thống các trường chuyên nghiệp, dạy nghề và đại học, đào tạo trên đại học trong nước được mở rộng; hàng năm có hàng trăm nghiên cứu sinh, thực tập sinh được cử đi nước ngoài học tập trở về cùng với lực lượng được đào tạo trong nước đã góp phần giải quyết thành công những vấn đề khó khăn nảy sinh khi đất nước thống nhất.

Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đến nay, cùng với sự nghiệp mới nói chung, sự nghiệp giáo dục, văn hóa cũng được đổi mới và nâng lên tầm cao mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã chỉ rõ: ”Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và là động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Quan điểm này của Đảng ta đã được cụ thể hóa trong Luật Giáo dục và luật Khoa học Công nghệ. Về văn hóa, Nghị quyết hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã xác định ”Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội…”. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục và đào tạo ở nước ta đã đạt được thành tựu to lớn. Đến nay, cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành giáo dục đào tạo đã phát triển, có nền giáo dục, đào tạo rộng khắp, hoàn chỉnh, thống nhất về mục tiêu, tính chất nguyên lý giáo dục. Giáo dục, đào tạo phát triển mạnh, không ngừng tăng về số lượng và chất lượng. Trong đổi mới đã xuất hiện những mô hình mới cùng hướng tới mục tiêu đào tạo. Các em trong độ tuổi đều được phổ cập phổ thông trung học cơ sở; hầu hết thanh niên học hết phổ thông trung học, có gần 400 trường đại học và cao đẳng với hàng triệu sinh viên; có gần 20 nghìn tiến sĩ và trên 7 nghìn giáo sư, phó giáo sư; trình độ dân trí đã có bước phát triển vượt bậc; số học sinh trung cấp chuyên nghiệp tăng 15,1%/năm; dạy nghề dài hạn tăng 12%/năm, sinh viên đại học và cao đẳng tăng 8,4%/năm; các trường dạy nghề phát triển mạnh, chất lượng dạy nghề có chuyển biến tích cực, bước đầu đã hình thành mạng lưới dạy nghề cho lao động nông thôn, thanh niên các dân tộc thiểu số, gắn dạy nghề với tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo… Tuy nhiên, đến nay: ”Chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp. Khoa học và công nghệ chưa đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa…”9.

Song phải khẳng định rằng, nhờ có lực lượng cán bộ được đào tạo ở trong nước và ngoài nước mà bước đầu chúng ta đã hội nhập thành công và đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đội ngũ cán bộ và trí thức đã giải đáp cơ bản những vấn đề do thực tiễn đặt ra và dần làm sáng tỏ lý luận đi lên chủ nghĩa xã hội; đã làm chủ được một số công nghệ hiện đại, tiên tiến, nhất là công nghệ vật liệu mới, xây dựng, khai khoáng và công nghệ sinh học, nhiều vắcxin phòng bệnh và giống lúa mới do các nhà khoa học Việt Nam tạo ra được thế giới đánh giá cao đã góp phần quyết định đến sự thay đổi căn bản và toàn diện của nước ta, làm cho thế và lực, uy tín quốc tế của nước ta không ngừng tăng lên. Rõ ràng, nếu không có trí thức thì không thể làm nên những thắng lợi to lớn đó. Thực tế đã chứng minh và làm sáng tỏ câu nói của Bác: ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” và điều đó cũng khẳng định đó là một chân lý, vì thực tiễn bao giờ cũng là tiêu chuẩn cao nhất, là thước đo của chân lý, chỉ có bằng thực tiễn mới chứng minh được chân lý, chứng minh được tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không. Có nghĩa là suốt chiều dài lịch sử của đất nước, thực tiễn đã chứng minh tính hiện thực và sức mạnh của tư duy cách mạng chứa đựng trong câu nói của Bác ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”.

Ngày nay, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan, ngày càng sâu rộng, vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh để bảo vệ lợi quốc gia. Khoa học và công nghệ phát triển năng động, mạnh mẽ và đã trở thành lực lượng sản xuất xã hội trực tiếp; giáo dục và đào tạo có ý nghĩa quyết định đối với nền sản xuất vật chất của xã hội. Trong bối cảnh đó, khoa học, công nghệ và giáo dục, đào tạo là nhân tố quyết định sự thành bại của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, Đảng ta đã xác định ”giáo dục và đào tạo, cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu…”. Hơn lúc nào hết, chân lý ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” lại tỏa sáng, soi đường cho giáo dục, đào tạo phát triển.

Để thực sự là ”quốc sách hàng đầu” và tiếp tục thực hiện tốt lời dạy của Bác ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, đưa dân tộc ta tới đỉnh cao văn hóa, văn minh, xứng đáng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa cần phải có hệ thống giải pháp đồng bộ và quyết tâm cao, trước mắt cần tập trung vào một số giải pháp sau:

1. Tiếp tục đổi mới toàn diện, mạnh mẽ hơn nữa giáo dục, đào tạo, xây dựng, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao nói chung và đội ngũ trí thức nói riêng theo hướng: ”Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”, chấn hưng nền giáo dục Việt Nam”10.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế theo hướng kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực là nhân tố quyết định. Trong khi đó, lực lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay rất thấp, lao động phổ thông và dùng ”cơ bắp” vẫn chiếm tỷ trọng cao (hiện nay, lao động qua đào tạo mới đạt tỷ lệ 38%, lao động trong nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ gần 52%). Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ: Giáo dục, đào tạo cùng với khoa học, công nghệ là quốc sách hàng đầu. Song việc triển khai rất khó khăn và thực tế giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ vẫn chưa thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Thời gian vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã rất cố gắng trong khắc phục bệnh thành tích và nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông, nhưng chất lượng giáo dục phổ thông vẫn rất hạn chế, học sinh chưa biết vận dụng và liên kết kiến thức đã học với nhau. Trong sự nghiệp giáo dục thì chất lượng giáo dục mầm non, phổ thông rất quan trọng. Nó không chỉ tạo cơ sở để con người phát triển toàn diện, mà còn là cơ sở tiền đề đề nâng cao chất lượng giáo dục chuyên nghiệp (dạy nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học…). Vì vậy, cần có chính sách mạnh mẽ đổi mới căn bản giáo dục và đào tạo từ giáo dục mầm non, phổ thông đến giáo dục dạy nghề, đại học và đào tạo trên đại học, đào tạo lại… Trước mắt, cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông, phải có chính sách hợp lý đối với các giáo viên để có các thầy cô giỏi và có đạo đức trong sáng, vừa dạy chữ vừa dạy học sinh làm người; cải cách sách giáo khoa và chương trình của các cấp học bậc phổ thông nhằm khắc phục tình trạng quá tải và hạn chế đến mức thấp nhất các thiếu sót và mất cân đối, đồng bộ trong các bộ sách giáo khoa hiện nay. Việc phát triển quá nhanh các trường đại học như vừa qua đã phần nào làm cho chất lượng giáo dục đại học bị hạn chế, trong khi đó chính sách đối với các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật chưa được đầu tư đúng mức, nguồn vốn đầu tư cho dạy nghề dàn trải, lại bị chia sẻ cho nhiều tổ chức. Do đó, cần tập trung xây dựng một số trường đại học và dạy nghề trọng điểm, có tầm cỡ khu vực và quốc tế, đồng thời mở rộng và hợp tác có hiệu quả với các trường đại học có uy tín của nước ngoài; đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phân hệ đào tạo kỹ sư lý thuyết và kỹ sư thực hành trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Cùng với việc tiếp tục xây dựng chất lượng nguồn nhân lực cần có chính sách sử dụng nhân lực hợp lý, trong đó chú ý đến chính sách thu hút trọng dụng hiền tài từ nhiều nguồn khác nhau như các nhà khoa học và công nghệ gốc Việt, Việt kiều… Thực tế, trong quá trình đổi mới, nhất là những năm gần đây, kể cả nguồn chi từ ngân sách nhà nước và nguồn tài chính từ các gia đình (làm cho lượng lưu học sinh du học ở nước ngoài rất lớn, nhưng sau khi tốt nghiệp, một số sinh viên giỏi lại không trở về nước làm việc. Một số địa phương có chính sách thu hút thạc sĩ, tiến sĩ và thủ khoa của các trường đạt học, nhưng việc sử dụng lại không hợp lý nên sau một thời gian, họ chưa phát huy được khả năng hoặc lại xin chuyển cơ quan. Điều đó chứng tỏ, hiện nay nguồn nhân lực có chất lượng cao ở nước ta đã ít nhưng việc sử dụng lại chưa hợp lý. Các chính sách phải thể hiện rõ quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu như Đảng ta đã đề ra.

Việc xây dựng chiến lược đào tạo, thu hút nhân tài của đất nước trong giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050, trong đó phải thể hiện rõ:

Thứ nhất, thực hiện tốt khâu quy hoạch đội ngũ trí thức trong quy hạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực Việt Nam phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định số lượng, tiêu chuẩn hóa chất lượng trí thức. Đặc biệt cần quan tâm đến quy hoạch đội ngũ trí thức, cần có trí thức uyên thâm (nhân tài) làm đầu tàu trong giảng dạy và nghiên cứu. Nguồn quy hoạch trí thức phải bắt đầu từ học sinh phổ thông và các bậc học trong hệ thống giáo dục. Tạo mọi cơ hội bình đẳng trong sự phát triển của mọi người, trong đó cần chú ý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức nữ, dân tộc ít người. Nói chung, đối với nhân tài phải phát hiện từ học sinh phổ thông để quy hoạch và định hướng cho sự phát triển sau này: Không để một học sinh nào có năng khiếu, tài năng mà chỉ vì thiếu tiền đóng học phí mà phải ”bỏ” học, nguồn lực xã hội đóng góp cho các tổ chức, các quỹ cần được ưu tiên sử dụng cho đối tượng này. Để trở thành một trí thức phải qua một quá trình bồi dưỡng, đào tạo nhằm tích lũy tri thức và phương pháp luận, biết cách vận dụng sáng tạo từ đó có những phát minh, sáng chế mới. Giáo dục và đào tạo có vai trò quyết định đến xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao nói chung và xây dựng đội ngũ trí thức nói riêng. Đổi mới phương pháp thi cử và đánh giá chất lượng để bằng cấp phản ánh đúng thực chất tri thức và học vấn, đồng thời khắc phục tình trạng ”học giả bằng thật” còn tồn tại hiện nay; phương pháp dạy và học tập sự chủ động, tích cực, sáng tạo của người học.

Thứ hai, bố trí hợp lý, sử dụng đúng đội ngũ trí thức, tạo môi trường thuận lợi để đội ngũ trí thức phát huy tài năng của mình cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo và xây dựng, đất nước. ”Hiền tài là nguyên khí quốc gia” nên được trân trọng và sử dụng đúng. Trước hết, cần rà soát, đánh giá đúng đội ngũ trí thức hiện có để bố trí hợp lý và sử dụng đúng. Tạo môi trường thuận lợi cho trí thức làm việc. Bố trí, sử dụng phải gắn liền với trọng dụng, trọng đãi và trọng thị trí thức, nhất là đối với các nhân tài. Ngay từ xa xưa, Mạnh Tử đã viết ”Tôn trọng, sử dụng người có tài, để họ ở vị trí xứng đáng thì người tài trong thiên hạ sẽ vui lòng phục vụ triều đình”… Ở nước ta, khi Lê Lợi bắt đầu khởi nghĩa đã ”Hậu đãi tân khách, vời người trốn tránh, dùng người làm phản, ngầm nuôi kẻ mưu sĩ, bỏ của phát thóc giúp người cơ bần, nhún lời, hậu lễ để thu hào kiệt”11… Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn thư yêu cầu các địa phương phát hiện và tiến cử trí thức, nhân tài cho Chính phủ.

Thứ ba, tiêu chuẩn hóa trí thức. Khi tổng kết về kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực, Liên hợp quốc đã đưa ra một số tiêu chuẩn cơ bản về trí thức, nhân tài. Căn cứ vào thực tế Việt Nam, chúng ta cũng cần xây dụng các tiêu chuẩn phù hợp đối với trí thức theo hướng chuẩn hóa, từ đó có chính sách, chế độ hợp lý đối với trí thức.

Thứ tư, Đảng phải thống nhất lãnh đạo công tác xây dựng và quản lý đội ngũ thức, thu hút nhân tài. Ngày nay và nhất là trong nền kinh tế tri thức thì đội ngũ trí thức là người quyết định chất lượng giáo dục, đào tạo và là đầu tàu của nguồn nhân lực chất lượng cao, là lực lượng sản xuất trực tiếp tiên tiến nhất, quyết định năng suất chất lượng, sức mạnh cạnh tranh và sự thịnh, suy của mỗi quốc gia. Bởi vì, họ là những người tích lũy được nhiều tri thức của nhân loại một cách có hệ thống. Để phát huy được trí tuệ và năng lực của đội ngũ trí thức vào phục vụ sự nghiệp cách mạng, thực hiện mục tiêu ”dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thì Đảng phải thống nhất quản lý đội ngũ này nhằm xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam ”vừa hồng vừa chuyên” với phương châm tôn trọng trí thức, tôn trọng sáng tạo, lấy việc thúc đẩy phát triển là điểm xuất phát căn bản của công tác trí thức, ra sức đào tạo và phân bố hợp lý trí thức tạo sự bảo đảm về tri thức đầy đủ và trí tuệ sáng tạo cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước. Nhà nước cần có chính sách, chế độ xứng đáng đối với trí thức có cống hiến xuất sắc. Mặt khác, để lựa chọn được trí thức vào những vị trí tương xứng và bảo đảm công bằng, cần có cơ chế cạnh tranh giữa các trí thức về tiền lương, tiền thưởng,… Chính sự cạnh tranh sẽ là động lực bên trong thúc đẩy các trí thức vươn lên tích lũy tri thức và tìm ra các phát minh, sáng chế mới.

Từ những nước chậm phát triển trong những năm 60 của thế kỷ XX, Xingapo và Hàn Quốc đã tập trung vào giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng và thực sự giáo dục, đào tạo đã trở thành động lực cho sự phát triển bền vững của hai quốc gia này. Đó là những kinh nghiệm mà chúng ta có thể chọn lọc, tiếp thu,…

2. Phát triển mạnh khoa học, công nghệ để khoa học, công nghệ thực sự trở thành động lực của sự phát triển đất nước. Thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Song việc nghiên cứu khoa học và ứng dụng công nghệ ở Việt Nam còn rất hạn chế, do nhiều nguyên nhân, cả trình độ, cơ chế quản lý nghiên cứu khoa học và nhiều lý do khác mà có khi chúng ta lại tiếp nhận (nhập) những công nghệ lạc hậu từ những thập niên trước. Theo khảo sát mới đây của Sở Khoa học – Công nghệ, tại thành phố Hồ Chí Minh – nơi dẫn đầu cả nước về công nghiệp (chiếm khoảng 30% giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước) chỉ có l% doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên tiến, 51% doanh nghiệp đạt trình độ thấp dưới trung bình và đặc biệt trong số này có cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Vì vậy, cần xây dựng chính sách khuyến khích ứng dụng công nghệ cao gắn với bảo vệ môi trường sinh thái.

Đổi mới và tăng cường quản lý nghiên cứu khoa học theo hướng đầu tư cho nghiên cứu cơ bản và giải đáp những vấn đề bức xúc thực tiễn đang đặt ra, gắn nghiên cứu lý thuyết với địa chỉ ứng dụng, thu hút mạnh mẽ các trường đại học vào tham gia nghiên cứu khoa học. Đặc biệt cần có chính sách ưu đãi đối với các nhà khoa học đầu đàn (những nhà khoa học thực sự chứ không phải bằng cấp) – những người vừa có kiến thức uyên thâm, có chính kiến vừa thu hút được các nhà khoa học khác tham gia nghiên cứu. Bởi vì, trong nghiên cứu, cá nhân nhà khoa học có vai trò đặc biệt quan trọng. Nếu biết sử dụng, trọng dụng, trọng thị để họ phát huy hết năng lực của mình thì chắc chắn họ không chỉ tạo ra các sản phẩm khoa học có giá trị, giải đáp có căn cứ khoa học những vấn đề thực tiễn đất nước đang đòi hỏi mà qua nghiên cứu còn đào tạo được các nhà khoa học kế tục họ.

Đổi mới mạnh mẽ việc quản lý nghiên cứu khoa học theo hướng sản phẩm khoa học công nghệ là hàng hóa, xác lập đầy đủ các yếu tố của thị trường khoa học công nghệ. Đổi mới việc giao đề tài nghiên cứu và cách đánh giá kết quả nghiên cứu để khắc phục triệt để tình trạng nhiều đề tài nghiên cứu xong không có địa chỉ áp dụng; thúc đẩy mạnh mẽ việc xã hội hóa các kết quả nghiên cứu (trừ những kết quả nghiên cứu không được phép phổ biến hoặc liên quan đến an ninh quốc gia). Tổ chức lại các viện nghiên cứu, Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số viện nghiên cứu trọng điểm quốc gia với trang thiết bị hiện đại, tiên tiến. Đồng thời, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế về lĩnh vực khoa học công nghệ nhằm thực hiện sự chuyển giao và đi tắt đón đầu trong lĩnh vực khoa học công nghệ để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trong lĩnh vực này.

Thực sự dân chủ trong nghiên cứu khoa học, trong khoa học các ý kiến trái chiều nhau phải được tôn trọng. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, tất cả phải xuất phát từ thực tiễn, lý luận gắn với thực tiễn, tôn trọng thực tiễn, tôn trọng sự thật, tôn trọng quy luật làn cho sáng tạo về lý luận phản ánh đúng thực tiễn và dẫn dắt thực tiễn đi đúng hướng.

3. Tiếp tục phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần, nội dung, giải pháp mà Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, Kết luận Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về xây dựng và phát triển văn hóa nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và định hướng Đại hội X đã đề ra là: ”Tiếp tục phát triển sâu rộng và nâng cao chất lượng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn với phát triển kinh tế – xã hội, làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội”12. Bảo đảm thực sự tự do, dân chủ trong hoạt động văn hóa, nghệ thuật xuất bản đồng thời với phát huy trách nhiệm của công dân và các văn nghệ sĩ, nhà xuất bản, làm cho văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội.

Với sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất xã hội và xu thế toàn cầu hóa theo hướng kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ đã trở thành động lực cơ bản, trực tiếp của sự phát triển kinh tế – xã hội. Giáo dục, đào tạo là nền tảng của sự phát triển khoa học, công nghệ, sáng tạo văn hóa, văn học, nghệ thuật phát triển nguồn nhân lực; đồng thời giáo dục, đào tạo đóng vai trò chủ yếu trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của mỗi cá nhân đối với dân tộc, xã hội, đất nước. Ngày nay, giáo dục và đào tạo càng có ý nghĩa quyết định trong việc làm thay đổi nền sản xuất xã hội. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển. Giáo dục và đào tạo là yếu tố bên trong, yếu tố cấu thành của nền sản xuất xã hội. Không thể phát triển đưa lực lượng sản xuất xã hội nếu không phát triển giáo dục và đào tạo. Các nước G7 và một số nước mới nổi như Trung Quốc, Hàn Quốc, Xingapo, các nước Bắc Âu… đã chứng minh điều đó. Hay nói cách khác, thực tiễn phát triển của các quốc gia trên thế giới vừa qua cũng đã chứng minh quan điểm, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” là chân lý đã được thực tiễn kiểm chứng. Nhân loại đang bước vào thời kỳ văn minh trí tuệ, nền kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi quốc gia, dân tộc, bằng truyền thống và năng lực của mình phải nhanh chóng tiếp cận tri thức, làm chủ bản thân, làm chủ tự nhiên, làm chủ khoa học, công nghệ, làm chủ đất nước và xã hội thì mới có thể ”sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

Tóm lại, lịch sử phát triển xã hội loài người và nhất là thực tiễn phát triển của nước ta và các nước trên thế giới vừa qua đã chứng minh, kiểm nghiệm lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” cùng với lời kêu gọi ”Không có gì quý hơn độc lập tự do” là những chân lý của thời đại. Nhất là trong điều kiện giáo dục, đào tạo, khoa học kỹ thuật, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất xã hội trực tiếp và nền kinh tế thế giới đang phát triển theo hướng kinh tế tri thức thì chân lý ”Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” càng mang tính thời sự sâu sắc. Nó đã, đang và sẽ dẫn dắt không chỉ dân tộc Việt Nam mà cả các dân tộc khác trên thế giới hướng tới đỉnh cao văn minh của nhân loại. Nó còn là tư tưởng lớn của Bác Hồ, là mệnh lệnh thúc giục dân tộc ta vươn tới đỉnh cao của văn hóa, văn minh, xứng đáng là một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “sánh vai cùng các cường quốc năm châu”.

_____________

1. Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 2000, tr.263.

2,3,4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.8, 33, 36-37.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.4, tr.8.

6. Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam, Nxb. Sự thật, H.1974, tr.65.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.6, tr.173.

8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2002, t.11, tr.224.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, tr.63.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, tr.95.

11. Phan Hữu Dật: Phương sách dùng người của ông cha ta trong lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H.1994, tr.59.

12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2006, tr.106.

Rate this post